Khu vui chơi trẻ em công viên Nguyễn Văn Cừ, thành phố Bắc Ninh
Trong lĩnh vực học thuật, khái niêm KGCC ở Việt Nam chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng như ở các nước trên thế giới, đặc biệt là phương Tây. Trên thực tế, KGCC nói chung và không gian vui chơi giải trí trong các khu dân cư nói riêng đang thiếu thốn trầm trọng. Trẻ em, thanh niên phải chơi đùa trên đường phố, người già không có chỗ đi dạo an toàn. Bố mẹ không dám cho con ngoài vì không có chỗ chơi đảm bảo an toàn với nhiều nguy cơ rình rập. Những không gian rèn luyện thế chất đúng nghĩa cũng không có, trong khi nhu cầu đi bộ, tập thể dục, khiêu vũ, vận động của người dân rất lớn. Số lượng còn thiếu thốn như vậy thì khoan hãy bàn đến chất lượng của các KGCC. Các vườn hoa, sân chơi nếu có chỉ là những khoảng trống với vài khuôn cỏ trồng cây sơ sài, với vài chiếu ghế đá đúc sẵn gẫy chân hoặc mất chỗ tựa, hết sức nhạt nhẽo, buồn tẻ, thiếu sức sống.
Bài viết này tiếp cận chủ đề KGCC trước tiên từ góc độ lý thuyết, từ đó phân tích những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và nêu ra những hướng điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao cả chất và lượng KGCC ở Việt Nam.
Từ góc độ chính trị – xã hội, KGCC là một loại “cơ sở hạ tầng”.
Bản thân KGCC là một khái niệm phức tạp, đa chiều và không có một định nghĩa chung, phổ quát toàn cầu về nó. KGCC được tạo ra, được sử dụng, được gán nghĩa, được quản lý, và được tái sinh do các nhu cầu chính trị – kinh tế – xã hội của các thể chế xã hội khác nhau, ở các không gian và tại thời gian khác nhau, bị chi phối bởi các hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội khác nhau.
Nguồn gốc của KGCC, theo cách nhìn của phương Tây, liên quan đến khái niệm “quyền tiếp cận và loại trừ” tới các không gian đó. Trong các mô hình xã hội dân chủ, nhà nước cần thiết lập những không gian mà ở đó tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận bất luận địa vị xã hội hay điều kiện kinh tế, và quyền này được bảo vệ bởi hiến pháp và pháp luật. Đó là những không gian thực sự là của chung, của tất cả mọi người – Các KGCC. Agora trong cấu trúc đô thị Hy Lạp cổ đại là ví dụ đầu tiên về loại KGGG này. KGCC vì vậy, có thể coi là một “công cụ vật lý” để nhà nước dân chủ thực hiện trách nhiệm của họ với xã hội và cũng thông qua đó tương tác với xã hội. Đương nhiên, các thể chế xã hội khác nhau, thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau thì các “quyền” tiếp cận đến các KGCC này cũng bị giới hạn và quy định theo cách thức và mức độ khác nhau: Ai được vào, vào lúc nào, được phép làm gì trong các không gian đó. Các KGCC vì vậy cũng được thiết kế, gán chức năng, gán nghĩa và quản lý tiếp cận theo cách thức riêng biệt, tương ứng. Quảng trường nơi diễn ra những sự kiện chính trị, xã hội quy mô lớn, với nghi thức chuẩn mực, hoành tráng là ví dụ điển hình của loại KGCC chính thống này. Công viên cũng được xem là một KGCC chính thống để đảm bảo quyền lợi được nghỉ ngơi thư giãn, tiếp cận thiên nhiên các các đối tượng xã hội.
Như vậy, khi tiếp cận khái niệm KGCC từ góc độ thể chế, một cách đơn giản nhất, chúng ta có thể xem KGCC là một đối tượng không gian chính quy, thiết yếu trong cấu trúc không gian đô thị, một dạng “cơ sở hạ tầng” với hai ý nghĩa: Cơ sở hạ tầng chính trị và cơ sở hạ tầng xã hội. CSHT chính trị thực hiện chức năng củng cố sự vận hành của nhà nước và thể chế, là “công cụ không gian” duy trì mối quan hệ tương tác vật lý giữa nhà nước và xã hội – thông qua các sự kiện chính trị có tổ chức chính thống. CSHT xã hội thực hiện chức năng đảm bảo các “quyền tiếp cận cơ bản” đến các dịch vụ đô thị của người dân được pháp luật quy định, và vì vậy thuộc trách nhiệm của nhà nước. Ở khía cạnh thứ hai này, nó tương tự nước sạch, y tế, giáo dục… là những tiện ích thiết yếu cơ bản của đời sống người dân mà nhà nước cần phải chịu trách nhiệm cung ứng.
Việc tạo lập các KGCC chính quy này được thực hiện thông qua công tác quy hoạch chính thống và được đầu tư, quản lý bởi nhà nước. Theo nguyên lý quy hoạch của các nước phương Tây, các KGCC này thường được tổ chức thành hệ thống, có tầng bậc và quy mô, được cung ứng từ cấp độ vùng, đến thành phố, đến khu vực, đến khu dân cư và cho đến tận các nhóm nhà. Hai hình thức phổ biến nhất của hệ thống KGCC này là các quảng trường (quy mô khác nhau) và các công viên vườn hoa (cũng với quy mô khác nhau). Nguyên lý thiết kế cho các KGCC này cả về hình thái, thẩm mỹ, công năng đã được đúc kết thành những pho tri thức quy hoạch và thiết kế đô thị kinh điển, được vận dụng phổ biến.
Từ góc độ xã hội, KGCC là một “sân khấu” của đời sống xã hội.
Khác với cách tiếp cận về KGCC từ góc độ thể chế, KGCC tiếp cận từ góc độ xã hội được xem là các không gian cho phép thoả mãn nhu cầu tương tác, chia sẻ, gặp gỡ, giải trí, tìm kiếm sự thư giãn thoải mái của các cá thể trong xã hội trong sự hoà mình vào xã hội. Sự tụ tập ở đây là do các cá thể tự nguyện đến và gặp nhau. Các KGCC này có thể theo bất cứ hình thức gì, nó có thể là một công viên, một quán trà hoặc café dân dã hay thậm chí là một vỉa hè, một khoảng trống giữa các công trình và không liên quan đến hình thức sở hữu cũng như hình hài của không gian đó. Ở đây, vấn đề không phải là “quyền” mà là “sự thỏa mãn” nhu cầu của người sử dụng. Với loại KGCC này, yếu tố “xã hội” trở thành cốt tủy của không gian: Là môi trường cho các sinh hoạt, tương tác của đời sống xã hội được diễn ra. Những KGCC có tính chất này có thể gọi là các không gian dân sự, hay không gian xã hội, hay các KGCC phi chính quy để phân biệt với các KGCC chính quy theo nghĩa “cơ sở hạ tầng” như trong cách tiếp cận thể chế ở trên. Việc phát triển các KGCC loại này không bắt buộc theo pháp luật, nhưng rất đáng khuyến khích vì nó làm tăng sức sống, độ hấp dẫn của đô thị.
“Đời sống xã hội” là phần quan trọng nhất của KGCC loại này, cho nên việc quy hoạch và thiết kế những KGCC này không đơn giản là đảm bảo chỉ tiêu diện tích và tạo hình 3D cho không gian mà phải tạo ra một môi trường cho đời sống xã hội thực sự diễn ra.
Yếu tố thúc đẩy sự ra đời của các KGCC phi chính quy này là do nhu cầu xã hội, nên có một loạt các vấn đề cần được đặt ra cho công tác quy hoạch và thiết kế:
Thứ nhất, hiểu về nhu cầu của người sử dụng, hiểu được tâm lý người sử dụng và tương tác xã hội – không gian là cơ sở cho việc thiết kế.
Thứ hai, các nhóm xã hội khác nhau sẽ có nhu cầu khác nhau và không thể có sự đồng nhất về nhu cầu, đương nhiên sẽ có những “tranh chấp và thương lượng” giữa các nhóm sử dụng trong không gian. Và vì vậy nhiệm vụ chính của quy hoạch và thiết kế là lường trước được vấn đề, dung hòa và đảm bảo phân bố “quyền” sử dụng không gian một cách công bằng cho các đối tượng.
Tính công cộng, tính xã hội của không gian do người sử dụng tạo ra chứ không phải do người thiết kế. Vì vậy, người thiết kế chỉ tạo ra các “tiềm năng” còn người sử dụng – cộng đồng – mới thực sự là người mang lại hiệu quả của không gian. Ở đây, sự tham gia của người sử dụng trong quá trình hình thành và vận hành không gian sẽ quyết định đến thành công của không gian.
Đã có vô số những nghiên cứu lý thuyết rất có giá trị về lĩnh vực tâm lý, môi trường và tương tác con người – không gian. Những nghiên cứu thực chứng này xoay quanh các câu hỏi đơn giản.
Con người có những nhu cầu gì (đối với không gian)?
Tâm lý của con người (trong KGCC) ra sao?
Quan hệ, tương tác Con người – Không gian là mối quan hệ như thế nào?
Xét về nhu cầu, có thể bắt đầu với tháp nhu cầu của nhà tâm lý học Maslow với cấu trúc 5 tầng liệt kê trật tự thứ bậc các cấp độ nhu cầu chính của con người. Những nhu cầu cơ bản ở phía đáy tháp phải được thoả mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thoả mãn ngày càng mãnh liệt khi tất cả các nhu cầu cơ bản ở dưới (phía đáy tháp) đã được đáp ứng đầy đủ.
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc “thể lý” (physiological) – thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) – cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging) – muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) – cần có cảm giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) – muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt.
Vấn đề đặt ra là, KGCC cần có những điều kiện gì để thể thỏa mãn các nhu cầu của con người.
Tầng nhu cầu đầu tiên rất dễ được thỏa mãn khi KGCC là nơi thoáng mát, sạch sẽ, có các tiện ích cơ bản như chỗ ngồi nghỉ có bóng mát, chỗ đi vệ sinh, rửa tay chân, chỗ bỏ rác, khi khát và mệt có thể tiếp cận với nước uống và đồ ăn. Thiếu khu vệ sinh và chỗ rửa chân tay là một thiếu sót phổ biến ở các KGCC ở Việt Nam. Nước uống và đồ an thì rất dễ được thỏa mãn nhờ lực lượng bán hàng rong, một cách thức tuyệt vời. Có những quan niệm tiêu cực về hàng rong do khó quản lý về mặt vệ sinh, môi trường và tạo một hình ảnh nhếch nhác. Nhưng hàng rong là kênh đáp ứng những nhu cầu xã hội trong KGCC hết sức nhân văn và hiệu quả, chưa nói đến khía cạnh tạo sinh kế cho một bộ phận lớn người dân tự do. Vì vậy, việc tổ chức hoạt động bán hàng rong quy củ, có sự chuẩn bị tốt hơn về cơ sở hạ tầng là cần thiết và không hề khó đối với nhà thiết kế và nhà quản lý.
An toàn và an ninh cũng là yếu tố quan trọng khi thiết kế KGCC: Xe máy ô tô không được phép đe dọa sự an toàn của KGCC, nhưng việc ngăn chặn xe máy ô tô không nhất thiết sử dụng hàng rào sắt – ngăn chặn cả tiếp cận của người sử dụng. Công viên vườn hoa cần được thiết kế càng đông người vào sử dụng càng tốt vì càng đông vui thì an ninh càng cao với nhiều “con mắt quan sát” trong không gian. Buổi tối cần có đủ đèn chiếu sáng để đảm bảo an ninh, vì tội phạm thường xảy ra ở chỗ vắng và chỗ tối.
KGCC có tiềm năng đặc biệt trong việc thỏa mãn nhu cầu giao lưu chia sẻ của con người trong xã hội và nhu cầu thuộc về. Nếu trẻ em có thể chơi đùa với nhau, nếu người lớn có chỗ ngồi quan sát trẻ em chơi và trò chuyện, nếu thanh niên có chỗ đá bóng và đá cầu, người già có chỗ chơi cờ, đi dạo, ngồi thư giãn ngắm cảnh, nếu chị em phụ nữ có không gian tập thể dục nhịp điệu, các nhóm trung niên có thể tập dưỡng sinh hay khiêu vũ trong KGCC ở các khu dân cư thì chắc chắn mối quan hệ cộng đồng ở khu dân cư sẽ rất gắn bó, khăng khít, và bản thân họ sẽ rất gắn bó với KGCC đó. Cảm giác thuộc về cộng đồng ấy, nơi chốn ấy sẽ dần được hình thành.
Ở phương Tây khi thiết kế các KGCC người ta luôn tạo cơ hội cho người sử dụng chủ động bộc lộ mình: Những không gian thách thức cho những người ưa mạo hiểm, những không gian tương tác với nước cho trẻ em, nhưng bề mặt được phép vẽ grafiti cho những người yêu hội họa đại chúng, các không gian cho phép các nghệ sĩ đường phố biểu diễn và cho phép mọi người thưởng thức… tất cả là nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng “bộc lộ” mình, thỏa mãn nhu cầu cao nhất là được “thể hiện” bản thân (tầng nhu cầu thứ 5) và nhận được sự tán thưởng, ngưỡng vọng từ người khác (tầng nhu cầu thứ 4). Trong cách thiết kế KGCC ở phương Tây, việc tạo cơ hội và lôi kéo người sử dụng hoạt động (tham gia chủ động) và cơ hội quan sát, theo dõi (tham gia thụ động) được đặc biệt chú trọng. Do vậy, các giải pháp thiết kế thường là phức hợp, đa năng, linh hoạt: Các bậc cấp vừa có thể là chỗ ngồi vừa có thể là lối đi lên xuống. Các không gian không bao giờ chỉ là đơn năng mà luôn được tính đến yếu tố đa năng.
Xét về khía cạnh tâm lý, khi ở trong một KGCC, “cái tôi” và “cái chúng ta” của mỗi người sẽ luôn tìm đến một ranh giới phù hợp, cân bằng. Người ta ra KGCC để hòa cái tôi vào thiên nhiên, vào cái chúng ta, nhưng nếu cái tôi bị ảnh hưởng quá mức, họ sẽ không còn cảm thấy thoải mái. Câu hỏi đặt ra là:
Đâu là ranh giới tâm lý giữa cái TÔI và cái CHÚNG TA và hai cái đó tồn tại như thế nào trong cùng một KHÔNG GIAN?
Cái TÔI hoà nhập thế nào vào cái CHÚNG TA và ngược lại?
Mặc dù điều này rất khó xác định rõ ràng và mạch lạc, nhưng bản chất thành công của mọi KGCC là cho phép nhiều hoạt động, giao tiếp xã hội diễn ra, đồng thời bảo tồn được phạm vi cá thể của từng người. Bởi vậy, thiết kế KGCC có hai hướng chính: Một là làm sao tăng tới mức tối đa các giao tiếp xã hội, cảm nhận về cộng đồng, về chúng ta, mặt khác làm sao đảm bảo tới mức tối đa phạm vi cá nhân của mỗi người trong cộng đồng. Vì vậy một KGCC cũng cần có đa dạng các khu vực không gian với mức độ công cộng và riêng tư khác nhau, động – tĩnh khác nhau.
Ở đây, việc quan sát các nhóm sử dụng không gian, tìm hiểu nhu cầu sử dụng không gian của họ, kể cả những nhu cầu tiềm ẩn, vẫn là cơ sở để tạo ra các KGCC hiệu quả, có sức sống xã hội.
Một nghiên cứu khác của Jan Gehn, một nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực thiết kế đô thị về hoạt động ngoài trời và chất lượng không gian đã chỉ ra rằng: Hoạt động ngoài trời của con người có thể chia thành 3 nhóm, đó là:
Hoạt động thiết yếu: Là những hoạt động bắt buộc trong chừng mực nào đó; ko phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, người tham gia không có lựa chọn.
Hoạt động tự chọn: Là những việc người ta thích làm nếu thời gian và địa điểm cho phép, chỉ diễn ra khi điều kiện bên ngoài thuận lợi, thời tiết, địa điểm quyến rũ. Tất cả hoạt động vui chơi giải trí ngoài trời đều xếp vào loại này.
Hoạt động xã hội: Là những hoạt động phụ thuộc vào sự hiện diện của những hoạt động khác trong KGCC: Nhìn ngắm, nghe người khác (thụ động); làm quen nói chuyện, chào hỏi; trẻ em nô đùa với nhau, kết bạn…
Những nghiên cứu thống kê của ông đã khẳng định rằng, tần suất hoạt động bắt buộc gần như không thay đổi không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết hay chất lượng không gian, trong khi đó các hoạt động tự chọn sẽ tăng đáng kể khi thời tiết tốt và không gian hấp dẫn, phù hợp, và ở những không gian đó tần suất xuất hiện các hoạt động xã hội cũng tăng theo. Và chất lượng KGCC được cải thiện sẽ làm gia tăng số lượng, thời gian, phạm vi hoạt động ngoài trời của con người.
Những khoảng trống giữa lý luận và thực tiễn
Có rất nhiều bài học có thể được rút ra để thu gọn những khoảng trống lớn giữa công tác lý luận về KGCC trên thế giới và ở Việt Nam, và công tác thực hành quy hoạch – thiết kế không gian, giữa sản phẩm không gian thực thể và sinh hoạt xã hội trong không gian.
Do có nhiều cách tiếp cận khái niệm KGCC, và khái niệm này liên tục được định nghĩa và tái định nghĩa dưới nhiều góc độ, mỗi xã hội có cách nhìn nhận, tái sinh và sử dụng KGCC theo những cách rất khác nhau nên việc tổ chức, thiết kế, tạo dựng KGCC vì vậy không đơn giản và không thể theo khuôn mẫu. Ở Việt Nam, thứ nhất, cần có những nghiên cứu sâu hơn và toàn diện hơn về KGCC từ các cách tiếp cận khác nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa để cung cấp các cơ sở lý thuyết cho công tác quy hoạch và thiết kế thực tiễn.
Ở cấp độ tổng thể:
Trong hệ thống quy hoạch đô thị chính quy, cần xác định và củng cố vai trò của hệ thống KGCC chính quy như một loại cơ sở hạ tầng chính trị – xã hội thiết yếu, có chỉ tiêu và nguyên lý thiết kế phù hợp, và các các loại và KGCC phi chính quy nhằm đảm bảo yếu tố đầu tiên là “lượng” đối với KGCC. Cần lưu ý, không gian cây xanh là KGCC nhưng KGCC không chỉ là không gian cây xanh, vườn hoa, mặt nước. Vì vậy cần thoát ly khỏi nếp tư duy hẹp trong quy hoạch và thiết kế KGCC ở nước ta: Cứ KGCC là tô màu xanh và khi xây nên thì thành các ô trồng cỏ không mấy tác dụng.
Chúng ta có thể biến KGCC và hệ thống KGCC trở thành một bộ phận không thể thiếu, tạo thành bản sắc của đô thị. Khi đó, chúng sẽ được bảo tồn cho tất cả mọi người bởi tất cả mọi người. Hướng đi này mở ra xu hướng nghiên cứu rất rộng, đa ngành và linh hoạt về KGCC. Điều quan trọng nhất là phải nắm được cái thần, cái tổng thể của cả đô thị chứ không bị chia xẻ vụn vặt ra thành những không gian rời rạc.
Ở cấp độ cụ thể:
Để cải thiện “chất lượng” KGCC, xóa bỏ những bất hợp lý trong các KGCC và để KGCC phục vụ tốt nhất cho xã hội cần có một sự thay đổi tư duy thiết kế, lấy việc nghiên cứu phân tích khảo sát nhu cầu đa dạng của các nhóm người sử dụng không gian và các sinh hoạt của họ trong không gian làm cơ sở thiết kế. Việc thiết kế cũng cần thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và các nhu cầu bậc cao của con người.
KGCC không chỉ là những không gian vật chất cố định với các chức năng cụ thể được thiết kế có chủ đích, mà còn là không gian do người sử dụng tạo ra. Trên thế giới cũng đang có một cuộc cách mạng trong tư duy và cách tiếp cận vấn đề để khai thác tính xã hội, sinh động, linh hoạt, bền vững… trong không gian đô thị. Cho nên chúng ta cần thay đổi tư duy từ thiết kế không gian sang tạo dựng nơi chốn (place-making). Khi đó, nguồn lực cho KGCC không chỉ trông chờ ở nhà nước mà có thể huy động ý tưởng, tài chính, vật tư và công sức của cộng đồng cùng với trách nhiệm và sự gắn bó của họ với không gian nữa, đó chính là cơ sở để hình thành nên các “nơi chốn”.